Cần kiện toàn hệ thống các chủ thể tham gia hệ sinh thái công nghệ văn hóa
Cần xác định rõ vai trò và cơ chế phối hợp giữa các chủ thể như: Xây dựng khung phân vai chức năng rõ ràng giữa Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức sáng tạo, viện nghiên cứu và cộng đồng nghệ sĩ trong các hoạt động công nghệ - văn hóa. Thiết lập cơ quan điều phối liên ngành (Interdisciplinary Cultural Tech Council) cấp quốc gia hoặc địa phương để dẫn dắt và kết nối các bên, tránh chồng chéo và đứt gãy chuỗi giá trị. Ban hành cơ chế hợp tác công – tư (PPP) chuyên biệt cho lĩnh vực văn hóa số, trong đó Nhà nước hỗ trợ hạ tầng và chính sách, doanh nghiệp đầu tư công nghệ và nền tảng phân phối, các tổ chức sáng tạo và nghệ sĩ phát triển nội dung.
Phát triển nguồn nhân lực văn hóa – công nghệ liên ngành: Tăng cường đào tạo liên ngành tại các cơ sở giáo dục đại học về công nghệ – văn hóa – truyền thông, phát triển chương trình cử nhân, thạc sĩ văn hóa số, mỹ thuật số, truyền thông đa phương tiện. Khuyến khích doanh nghiệp và tổ chức xã hội tham gia vào quá trình đào tạo thông qua mô hình "học qua dự án", kết nối sinh viên với các dự án thực tế. Phát triển các trung tâm bồi dưỡng ngắn hạn và trực tuyến về kỹ năng số cho đội ngũ sáng tạo văn hóa: kỹ năng AI, AR/VR, thiết kế nội dung số, quản lý dữ liệu văn hóa.
Nâng cao năng lực doanh nghiệp văn hóa – công nghệ: Thiết lập các quỹ đầu tư đổi mới sáng tạo văn hóa, có ưu đãi thuế, vay vốn mềm, hoặc hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo (startup) trong lĩnh vực văn hóa – công nghệ. Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ mới, thông qua chương trình chuyển giao công nghệ từ viện nghiên cứu hoặc hợp tác quốc tế. Xây dựng hệ thống tư vấn, ươm tạo và tăng tốc doanh nghiệp văn hóa số, bao gồm đào tạo chiến lược, quản trị bản quyền, marketing quốc tế và thương mại hóa nội dung số.
Phát triển công chúng văn hóa số: Thúc đẩy giáo dục văn hóa – công nghệ số trong nhà trường, từ cấp phổ thông đến đại học, với nội dung về nhận thức bản quyền, kỹ năng tìm kiếm và đánh giá thông tin, sử dụng nền tảng số một cách có trách nhiệm. Tổ chức các chiến dịch truyền thông đại chúng về văn hóa số, lồng ghép các nội dung định hướng thẩm mỹ, tiêu dùng có chọn lọc và chia sẻ có trách nhiệm trên nền tảng số. Khuyến khích mô hình công dân đồng sáng tạo (co-creator), nơi người tiêu dùng được tham gia thiết kế, phản hồi, phát triển nội dung văn hóa trên nền tảng mở, như trò chơi, video ngắn, triển lãm số.
Kết nối chủ thể – cộng đồng – nền tảng: Thiết lập các không gian sáng tạo cộng đồng (Creative Hub) tại địa phương, nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, kết hợp văn hóa truyền thống và công nghệ mới. Phát triển hệ thống nền tảng tích hợp văn hóa số quốc gia (National Cultural Tech Platform) để chia sẻ dữ liệu, kết nối các bên sáng tạo – phân phối – tiêu dùng. Khuyến khích mô hình hợp tác 3 bên: Nhà nước – Doanh nghiệp – Trường đại học, để đồng phát triển các sản phẩm thử nghiệm văn hóa số, vừa có giá trị nghệ thuật, vừa có khả năng thương mại.
Hoàn thiện mối quan hệ giữa các chủ thể trong hệ sinh thái
Tăng cường hợp tác hiệu quả giữa khu vực công và tư: Xây dựng cơ chế PPP chuyên biệt cho lĩnh vực văn hóa – công nghệ, trong đó Nhà nước đóng vai trò định hướng, hỗ trợ hạ tầng, còn doanh nghiệp đảm nhiệm phần công nghệ và thương mại hóa sản phẩm. Ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư và chia sẻ rủi ro khi doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào nội dung sáng tạo, số hóa di sản, phát triển nền tảng văn hóa số. Thành lập Quỹ đồng tài trợ sáng tạo văn hóa số công – tư, sử dụng ngân sách nhà nước phối hợp với nguồn vốn xã hội hóa để tài trợ cho các dự án có tiềm năng về công nghệ và giá trị văn hóa.
Thúc đẩy liên kết liên ngành bền vững: Hình thành Mạng lưới hợp tác liên ngành (Culture-Tech-Edu-Comm Network) kết nối các đơn vị văn hóa, công nghệ, giáo dục, truyền thông nhằm chia sẻ nguồn lực và cùng phát triển sản phẩm văn hóa số. Lồng ghép mục tiêu phát triển văn hóa số vào các chiến lược ngành (giáo dục, công nghệ, truyền thông), tạo sự thống nhất và liên thông trong chính sách liên ngành. Phát triển các chương trình liên kết đào tạo – sản xuất – truyền thông, trong đó sinh viên nghệ thuật, kỹ thuật số và truyền thông cùng tham gia các dự án văn hóa ứng dụng thực tiễn.
Hoàn thiện cơ chế chia sẻ giá trị trong chuỗi văn hóa số: Xây dựng khung pháp lý minh bạch về phân chia giá trị trong chuỗi sản xuất – phân phối – tiêu dùng nội dung số, đảm bảo người sáng tạo, nền tảng và người tiêu dùng đều được hưởng lợi hợp lý. Yêu cầu các nền tảng công nghệ (bao gồm nền tảng xuyên biên giới) công khai tỷ lệ chia sẻ doanh thu, thực hiện cam kết phân phối công bằng và hỗ trợ phát triển nội dung nội địa. Thí điểm mô hình “kinh tế chia sẻ văn hóa số”, cho phép người tiêu dùng được quyền sở hữu, đồng sáng tạo hoặc nhận lợi ích thông qua tương tác tích cực với nội dung văn hóa.
Phát triển không gian sáng tạo chung (Creative Hubs): Phát triển mạng lưới trung tâm sáng tạo công – tư – cộng đồng tại các thành phố và địa phương, được trang bị hạ tầng số cơ bản như thiết bị VR, máy tính hiệu năng cao, studio số. Ưu tiên bố trí đất và ngân sách cho mô hình không gian sáng tạo liên ngành, nơi các nghệ sĩ, nhà phát triển phần mềm, nhà nghiên cứu và doanh nghiệp có thể làm việc và thử nghiệm chung. Kết nối không gian sáng tạo với trường đại học, bảo tàng, thư viện, startup công nghệ, tạo thành các “cụm sáng tạo mở” thúc đẩy đổi mới từ cơ sở và phát hiện ý tưởng sáng tạo mới.
Cộng sinh trong ứng dụng công nghệ để phát triển văn hóa
Giải pháp nâng cấp và đồng bộ hóa hạ tầng số tại các địa phương: Đầu tư mở rộng hạ tầng băng rộng cố định và di động, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa thông qua các chương trình nhà nước – doanh nghiệp viễn thông cùng đầu tư. Tích hợp hạ tầng văn hóa và công nghệ tại địa phương: trang bị internet tốc độ cao cho thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa để trở thành điểm truy cập văn hóa số công cộng. Hỗ trợ thiết bị đầu cuối cho người dân (máy tính bảng, thiết bị thông minh giá rẻ) kết hợp đào tạo kỹ năng số cơ bản để thu hẹp khoảng cách số trong tiếp cận văn hóa.
Chuẩn hóa, mở và tích hợp dữ liệu văn hóa: Xây dựng Cơ sở dữ liệu văn hóa quốc gia (National Cultural Data Hub) với các chuẩn metadata thống nhất, kết nối dữ liệu từ thư viện, bảo tàng, di sản, nghệ thuật biểu diễn. Ban hành quy định mở dữ liệu văn hóa công, cho phép cá nhân, doanh nghiệp tái sử dụng dữ liệu cho mục đích sáng tạo, học thuật, giáo dục và kinh doanh có điều kiện. Tạo nền tảng dữ liệu số mở kết hợp AI – Blockchain để hỗ trợ truy xuất nguồn gốc, bản quyền và thúc đẩy sáng tạo lại nội dung (re-creation) một cách minh bạch và hợp pháp.
Tăng cường chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo văn hóa – công nghệ: Áp dụng chính sách ưu đãi thuế và tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp và sản xuất nội dung văn hóa số (giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu thiết bị sáng tạo…). Hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm văn hóa số (Cultural Tech Venture Fund) với sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp và quỹ tư nhân nhằm tài trợ các dự án sáng tạo dựa trên công nghệ. Hỗ trợ bảo hộ bản quyền sáng tạo số, qua việc giảm chi phí đăng ký bản quyền, hỗ trợ pháp lý, phát triển các công cụ giám sát – bảo vệ bản quyền số tự động.
Giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý phù hợp với công nghệ mới: Sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh, Luật Giao dịch điện tử… để phù hợp với thực tiễn phát triển nội dung số, đặc biệt là vấn đề bản quyền trên nền tảng xuyên biên giới. Xây dựng Luật hoặc bộ quy tắc riêng về nội dung văn hóa số, bao gồm quy định về AI trong sáng tạo, dữ liệu cá nhân trong môi trường văn hóa số, giới hạn kiểm duyệt hợp lý để đảm bảo tự do sáng tạo. Phát triển cơ chế thử nghiệm chính sách (sandbox) cho lĩnh vực văn hóa số, cho phép doanh nghiệp, startup thử nghiệm mô hình sáng tạo mới trong khung pháp lý linh hoạt có kiểm soát.
Duong Huy