Hệ sinh thái công nghệ thúc đẩy phát triển văn hóa

Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số đã làm thay đổi căn bản cách thức con người tiếp cận, sản xuất và tiêu dùng các giá trị văn hóa.

Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số đã làm thay đổi căn bản cách thức con người tiếp cận, sản xuất và tiêu dùng các giá trị văn hóa. Trong bối cảnh đó, bài báo này tiếp cận vấn đề từ góc nhìn hệ sinh thái công nghệ – một mô hình không chỉ xem xét riêng lẻ từng yếu tố công nghệ, mà tập trung vào sự tương tác tổng thể giữa các thành phần trong một hệ thống mở, linh hoạt và cùng phát triển. Trọng tâm bài viết là phân tích ba yếu tố cấu thành cốt lõi của một hệ sinh thái công nghệ có hiệu quả trong lĩnh vực văn hóa.

Thứ nhất, hệ sinh thái công nghệ bao gồm các chủ thể tham gia hoạt động công nghệ như: cơ quan quản lý nhà nước (xây dựng chính sách, định hướng phát triển), doanh nghiệp công nghệ và sáng tạo nội dung (cung cấp nền tảng, ứng dụng và sản phẩm văn hóa số), tổ chức giáo dục và nghiên cứu (đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo), cộng đồng sáng tạo (nghệ sĩ, nhà thiết kế, lập trình viên), người tiêu dùng văn hóa số (công chúng, xã hội dân sự).

Thứ hai, bài viết phân tích mối quan hệ giữa các chủ thể trong hệ sinh thái – không chỉ là mối liên kết đơn tuyến mà là mạng lưới tương tác đa chiều: hợp tác công – tư, liên kết nhà nước – doanh nghiệp – xã hội, phối hợp giữa sáng tạo nội dung và công nghệ nền tảng, cũng như giữa cung và cầu văn hóa. Những mối quan hệ này cần được thiết kế theo hướng linh hoạt, cởi mở và cùng chia sẻ giá trị.

Thứ ba, nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của môi trường cộng sinh dựa trên nền tảng công nghệnơi các chủ thể không chỉ tồn tại song song mà còn bổ trợ, thích nghi và phát triển cùng nhau. Đây là môi trường cần có sự bảo đảm từ thể chế chính sách, hạ tầng số đồng bộ, dữ liệu mở, các cơ chế chia sẻ lợi ích và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Môi trường cộng sinh sẽ là nền tảng để hệ sinh thái vận hành ổn định, tăng trưởng bền vững và hướng đến mục tiêu chung: thúc đẩy phát triển văn hóa số, nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp văn hóa và lan tỏa giá trị văn hóa Việt Nam.

Bằng cách tiếp cận hệ thống và liên ngành, hy vọng bài viết này đóng góp về mặt lý luận cho lĩnh vực nghiên cứu văn hóa – công nghệ, đồng thời gợi mở cho các nhà quản lý trong hoạch định chính sách và triển khai thực tiễn các mô hình phát triển văn hóa trong kỷ nguyên số.

Sự giao thoa mạnh mẽ giữa công nghệ và văn hóa đang mở ra kỷ nguyên mới, nơi hệ sinh thái công nghệ trở thành động lực then chốt cho sự phát triển văn hóa bền vững. Tuy nhiên, để khai thác tối đa tiềm năng này, chúng ta cần thấu hiểu các vấn đề cốt lõi. Trước hết, cần phân tích rõ vai trò và năng lực của các chủ thể tham gia trong chuỗi giá trị công nghệ - văn hóa, từ các nhà sáng tạo nội dung đến các tập đoàn công nghệ. Tiếp theo là việc xây dựng và duy trì mối quan hệ tương hỗ, hiệu quả giữa các chủ thể là yếu tố quyết định sự gắn kết và phát triển chung. Cuối cùng, việc kiến tạo một môi trường cộng sinh lành mạnh, dựa trên nền tảng công nghệ vững chắc sẽ là chìa khóa để văn hóa Việt Nam không chỉ bảo tồn mà còn vươn xa trong không gian số toàn cầu.

a. Đối với các chủ thể tham gia hoạt động công nghệ

Về sự phối hợp và phân vai rõ ràng giữa các chủ thể

Việc phân vai rõ ràng giữa các chủ thể trong hệ sinh thái công nghệ văn hóa là một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững. Thông thường, cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò định hướng nhưng thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả với doanh nghiệp và tổ chức sáng tạo, khiến chính sách ban hành thiếu tính thực tiễn. Doanh nghiệp công nghệ và viện nghiên cứu lại hoạt động độc lập, chưa tận dụng được thế mạnh lẫn nhau trong việc chuyển giao công nghệ, khai thác dữ liệu văn hóa hay thương mại hóa sản phẩm sáng tạo. Các tổ chức nghệ thuật, cộng đồng sáng tạo và nghệ sĩ cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận nền tảng công nghệ hoặc hiểu biết về các công cụ số để chuyển đổi sản phẩm. Việc không có một đầu mối kết nối hoặc một cơ chế hợp tác rõ ràng khiến nguồn lực bị phân tán. Điều này làm giảm hiệu quả đầu tư, chậm trễ trong đổi mới sáng tạo và suy giảm sức lan tỏa của sản phẩm văn hóa số [1].

Nguồn nhân lực thiếu hụt cả về số lượng lẫn chất lượng 

Nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa – công nghệ tại Việt Nam hiện đang thiếu hụt nghiêm trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Đặc biệt, đội ngũ có khả năng tích hợp công nghệ với sáng tạo văn hóa – như lập trình viên hiểu biết về mỹ thuật, nghệ sĩ sử dụng công nghệ XR, hay nhà thiết kế ứng dụng dữ liệu – lại càng hiếm. Số lượng các chương trình đào tạo liên ngành giữa nghệ thuật và công nghệ ở Việt Nam còn rất ít, chủ yếu tập trung ở một vài trường đại học lớn như Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học FPT (Thiết kế Mỹ thuật số - Digital Art & Design), Đại học Công nghệ TP.HCM (Truyền thông Đa phương tiện và Thiết kế Đồ họa)... Việc thiếu nhân lực chất lượng cao đang là nút thắt trong quá trình chuyển đổi số lĩnh vực văn hóa, khiến các sản phẩm nội dung số chưa phong phú, thiếu chiều sâu sáng tạo và khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Doanh nghiệp văn hóa - công nghệ còn yếu về năng lực công nghệ, tài chính 

Doanh nghiệp văn hóa – công nghệ ở Việt Nam phần lớn có quy mô nhỏ, năng lực công nghệ và tài chính còn yếu, dẫn đến khả năng cạnh tranh hạn chế cả trong nước lẫn quốc tế. Theo Báo cáo ngành công nghiệp văn hóa năm 2023 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hơn 85% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và nội dung số là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu vốn đầu tư dài hạn và công nghệ lõi. Trong khi đó, các nền tảng xuyên biên giới như YouTube, Netflix, TikTok, Spotify… đang chiếm hơn 80% thị phần phân phối nội dung số tại Việt Nam, khiến doanh nghiệp nội địa khó tiếp cận người tiêu dùng. Thống kê của Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước đây) cho thấy chỉ khoảng 12% doanh nghiệp văn hóa có khả năng ứng dụng công nghệ số ở mức cao (AI, VR, AR), phần còn lại chủ yếu mới dừng ở mức sử dụng mạng xã hội hoặc website cơ bản. Việc thiếu đầu tư cho nghiên cứu phát triển (R&D), thiếu liên kết với viện nghiên cứu và cộng đồng sáng tạo cũng khiến doanh nghiệp Việt tụt hậu về sáng tạo nội dung và công nghệ nền tảng.

Công chúng chưa được định hướng để tiếp cận văn hóa số

Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, người tiêu dùng văn hóa đóng vai trò không chỉ là người tiếp nhận mà còn là chủ thể đồng sáng tạo nội dung. Tuy nhiên, tại Việt Nam, người tiêu dùng văn hóa số vẫn chưa được định hướng và trang bị đầy đủ để phát huy vai trò này. Theo Báo cáo Digital 2025: Vietnam của We are Social (2025), tổng cộng có 127 triệu kết nối di động đang hoạt động tại Việt Nam vào đầu năm 2025, với con số này tương đương với 126% tổng dân số. Tính đến tháng 1.2025, có 79,8 triệu cá nhân sử dụng Internet tại Việt Nam, tỷ lệ thâm nhập trực tuyến trong tổng số dân đạt 78,8%. Việt Nam là nơi có 76,2 triệu người dùng mạng xã hội (01.2025), tương đương với 75,2% tổng dân số. Tuy nhiên, tỉ lệ người dân tiếp cận văn hóa số khá thấp, ví dụ chỉ có 30% số người đọc sách thường xuyên, 26% không đọc sách và 44% thỉnh thoảng mới đọc sách, trung bình một người Việt Nam chỉ đọc 4 cuốn sách/năm. Trong số đó có đến 2,8 cuốn là sách giáo khoa và 1,2 cuốn còn lại là thể loại sách khác [2]

Bên cạnh đó, tỷ lệ người tiêu dùng có tham gia đồng sáng tạo – ví dụ như thiết kế nội dung số, sản xuất video, viết blog, sáng tác âm nhạc trên nền tảng số – còn rất thấp, chỉ chiếm 7–10% trong tổng số người dùng internet tại Việt Nam (theo báo cáo Digital 2024 của We Are Social). Một nguyên nhân quan trọng là thiếu kỹ năng văn hóa – công nghệ số, như hiểu biết về bản quyền số, kỹ năng số cơ bản, tư duy truyền thông sáng tạo, hoặc khả năng sử dụng công cụ kỹ thuật số (AI, thiết kế số, chỉnh sửa nội dung).

b. Đối với mối quan hệ giữa các chủ thể trong hệ sinh thái

Thiếu các cơ chế hợp tác hiệu quả giữa khu vực công và tư 

Cơ chế hợp tác hiệu quả giữa khu vực công và tư (PPP) trong lĩnh vực văn hóa – công nghệ đang là một trong những rào cản lớn đối với quá trình chuyển đổi số ngành văn hóa ở Việt Nam. Hiện nay, các chương trình đầu tư công chủ yếu tập trung vào hạ tầng truyền thống (như bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa), trong khi đầu tư cho nội dung số và nền tảng công nghệ văn hóa lại rất hạn chế. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2023, chỉ khoảng 3,5% dự án PPP đang triển khai thuộc lĩnh vực văn hóa, phần lớn không có sự tham gia thực chất của các doanh nghiệp công nghệ.

Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu khung pháp lý rõ ràng cho hợp tác công – tư. Các doanh nghiệp tư nhân lại thiếu động lực tham gia do thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro – lợi ích, thường gặp vướng mắc về thủ tục hoặc giới hạn trong khai thác thương mại tài nguyên văn hóa công. Điều này có thể dẫn đến dự án công nghệ hay nền tảng số lĩnh vực văn hóa bị trì trệ vì chưa xác định rõ vai trò của từng bên trong hợp tác – ai đầu tư công nghệ, ai vận hành nội dung, ai sở hữu dữ liệu, ai được khai thác thương mại...

Liên kết giữa các lĩnh vực văn hóa, công nghệ, giáo dục, truyền thông 

Liên kết giữa các lĩnh vực văn hóa, công nghệ, giáo dục và truyền thông tại Việt Nam hiện vẫn còn lỏng lẻo, manh mún và thiếu cơ chế phối hợp bền vững, dẫn đến việc xây dựng hệ sinh thái công nghệ văn hóa gặp nhiều trở ngại. Đa phần các sản phẩm văn hóa số hiện nay do doanh nghiệp hoặc tổ chức văn hóa đơn lẻ triển khai. Trong khi thực tiễn phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam đang rất cần và đang trở thành lĩnh vực hấp dẫn doanh nghiệp khu vực tư nhân tham gia đầu tư, kinh doanh thì số lượng doanh nghiệp đầu tư cho lĩnh vực văn hóa khá khiêm tốn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam cung cấp năm 2023 cho thấy, năm 2022 số lượng cơ sở kinh doanh trong các ngành công nghiệp văn hóa đạt khoảng 70.321 cơ sở, thu hút lực lượng lao động trung bình khoảng 1,7 triệu đến 2,3 triệu người trong giai đoạn 2018 - 2022 [1]

Hiện chỉ có số ít cơ sở đào tạo có mở liên ngành với văn hóa, ví dụ: Công nghiệp Văn hóa – Đại học Văn hóa TP.HCM, Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật – ĐHQGHN (VNU-SIS), nghệ thuật biểu diễn – kỹ thuật sân khấu – công nghệ âm thanh ánh sáng của Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội... Các cơ sở giáo dục chưa tích cực tích hợp nội dung công nghệ – văn hóa trong chương trình đào tạo, khiến nguồn nhân lực ra trường khó đáp ứng nhu cầu liên ngành. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp công nghệ cũng chưa xem văn hóa là một lĩnh vực ưu tiên để đầu tư dài hạn.

Các tổ chức truyền thông đại chúng chưa chú trọng phát triển các chiến dịch truyền thông sáng tạo nhằm định hướng thẩm mỹ, giáo dục văn hóa số và quảng bá sản phẩm văn hóa nội địa. Điều này khiến thị trường nội dung số trong nước bị chi phối mạnh bởi các xu hướng ngoại lai từ nền tảng quốc tế. Việc thiếu một mạng lưới hợp tác liên ngành chặt chẽ khiến cho các nguồn lực bị phân tán, đổi mới sáng tạo kém hiệu quả và khả năng cạnh tranh của sản phẩm văn hóa Việt Nam trên thị trường số quốc tế còn rất hạn chế.

Cơ chế chia sẻ giá trị trong chuỗi sản xuất – phân phối – tiêu dùng văn hóa số  

Cơ chế chia sẻ giá trị trong chuỗi sản xuất – phân phối – tiêu dùng văn hóa số tại Việt Nam chưa thật sự rõ ràng và mất cân đối, dẫn đến nhiều bất cập trong việc phân phối lợi ích giữa người sáng tạo, nền tảng công nghệ và người tiêu dùng. Hiện nay, phần lớn sản phẩm văn hóa số (âm nhạc, video, truyện tranh, trò chơi…) được phân phối thông qua các nền tảng quốc tế như YouTube, Facebook, Spotify, TikTok. Theo báo cáo của Cục Bản quyền tác giả (2023), người sáng tạo Việt Nam chỉ nhận được khoảng 10–20% doanh thu quảng cáo từ các nền tảng này, trong khi nền tảng giữ lại tới 45–55%, phần còn lại dành cho các đơn vị trung gian (MCN, nhà quảng cáo).

Sự mất cân đối này khiến nhiều nghệ sĩ, nhà sáng tạo gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động sáng tạo chuyên nghiệp. Đồng thời, người tiêu dùng – dù đóng vai trò lan tỏa giá trị – vẫn chưa được khuyến khích trở thành chủ thể đồng sáng tạo hay góp phần vào chuỗi giá trị. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết xây dựng một cơ chế phân phối giá trị công bằng, minh bạch hơn để hệ sinh thái công nghệ văn hóa phát triển bền vững.

Thiếu các không gian sáng tạo chung để các chủ thể cùng phát triển

Việc thiếu hụt các không gian sáng tạo chung (creative hubs) đang cản trở rất lớn quá trình kết nối và hợp tác giữa các chủ thể trong hệ sinh thái công nghệ văn hóa tại Việt Nam. Theo báo cáo của British Council Việt Nam (2021), cả nước chỉ có khoảng 40 không gian sáng tạo hoạt động thường xuyên, tập trung chủ yếu tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, trong khi nhiều địa phương không có bất kỳ mô hình tương tự nào. Đáng chú ý, chỉ dưới 30% số không gian sáng tạo này được trang bị hạ tầng công nghệ cơ bản như studio số, thiết bị VR/AR hoặc phần mềm sản xuất nội dung số. Phần lớn hoạt động với nguồn lực tự phát, không ổn định về tài chính, thiếu chính sách hỗ trợ từ nhà nước. Báo cáo “Creative Hubs in Vietnam” (British Council, 2021) cũng cho biết, 85% đại diện các trung tâm sáng tạo được khảo sát mong muốn có thêm sự hỗ trợ về cơ sở vật chất, kết nối doanh nghiệp và khung pháp lý rõ ràng.

c. Đối với môi trường cộng sinh dựa trên nền tảng công nghệ

Hạ tầng số chưa đồng bộ gây ra khoảng cách số trong tiếp cận văn hóa tại nhiều địa phương, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa đang là một rào cản lớn trong việc tiếp cận và phát triển văn hóa số ở Việt Nam. Theo Báo cáo Chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh (DTI) 2023 do Bộ Thông tin và Truyền thông công bố, có tới 30/63 tỉnh, thành phố (trước đây) có điểm số về hạ tầng số dưới mức trung bình, trong đó các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có mức độ phủ sóng internet băng rộng thấp hơn 50%, thậm chí vẫn còn vùng lõm sóng.

Cũng theo báo cáo này, tỷ lệ hộ gia đình tại thành thị có kết nối internet là 92%, trong khi ở nông thôn chỉ đạt 65%, ở vùng sâu, vùng xa thậm chí dưới 50%. Điều này tạo ra khoảng cách số rõ rệt, khiến người dân ở những khu vực này khó tiếp cận các sản phẩm văn hóa số như thư viện điện tử, bảo tàng ảo, chương trình giáo dục nghệ thuật trực tuyến...

Dữ liệu văn hóa còn phân tán, thiếu chuẩn hóa và tính mở

Dữ liệu văn hóa tại Việt Nam hiện vẫn còn phân tán, thiếu chuẩn hóa và chưa được mở, gây khó khăn lớn trong việc tích hợp, tái sử dụng và phát triển sản phẩm văn hóa số. Ví dụ lĩnh vực di sản văn hóa, kết quả kiểm kê trên cả nước hiện có hơn 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng 3.621 di tích quốc gia và Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng 130 di tích quốc gia đặc biệt; đồng thời, có trên 40.000 di tích đã được kiểm kê theo quy định của Luật Di sản văn hóa. Với lĩnh vực thư viện số, các tỉnh đang tích cực số hóa tư liệu để xây dựng thư viện điện tử (áp dụng nhiều công nghệ trên nhiều công đoạn: lưu trữ, công nghệ nhận dạng tư liệu điện tử, quản lý người đọc, thẻ thư viện...). Tuy nhiên, việc liên thông để kết nối, chia sẻ dữ liệu thư viện vẫn chưa thực hiện tốt vì sự khác nhau về chuẩn kết nối, chuẩn công nghệ dữ liệu. Số liệu từ một số tỉnh thành (trước khi nhập tỉnh) như sau: Tỉnh Đồng Tháp đã sử dụng phần mềm E-Libman cài đặt trên các thư viện huyện,thị xã; CSDL hơn 185.000 bản ghi; 30.000 trang tài liệu địa chí; 1000 tài liệu điện tử khác; Thư viện tỉnh Gia Lai với CSDL 92.800 biểu ghi, 6710 tài liệu địa chí; Thư viện tỉnh Lâm Đồng số hóa 43.523 trang tài liệu; Thư viện tỉnh Thái Bình số hóa với 70.000 biểu ghi, 2500 tài liệu địa chí…

Một khảo sát do UNESCO Việt Nam thực hiện năm 2022 cho thấy chỉ khoảng 15% kho dữ liệu văn hóa được chia sẻ công khai trên các nền tảng số, chưa đến 5% đạt chuẩn metadata quốc tế, gây khó khăn cho việc tích hợp vào các nền tảng số hóa hoặc sử dụng trong công nghệ mới (AI, VR, AR).

Môi trường pháp lý chưa theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ

Môi trường pháp lý tại Việt Nam hiện chưa theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ số, đặc biệt trong các lĩnh vực như quyền tác giả, dữ liệu cá nhân và kiểm duyệt nội dung văn hóa số. Theo Báo cáo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) năm 2022, Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền trực tuyến cao, với hơn 50% nội dung âm nhạc, phim ảnh bị chia sẻ không phép trên nền tảng số. Mặc dù Luật Sở hữu trí tuệ đã được sửa đổi năm 2022, nhưng vẫn chưa có cơ chế thực thi hiệu quả trong môi trường số, nhất là với các nền tảng xuyên biên giới như YouTube hay TikTok.

Việc giải quyết đồng bộ ba nhóm vấn đề trên đòi hỏi cách tiếp cận hệ thống, trong đó các chủ thể không hoạt động đơn lẻ mà cùng tương tác trong một môi trường cộng sinh, cùng phát triển vì mục tiêu thúc đẩy công nghiệp văn hóa số. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất mô hình hợp tác đa chiều và khung chính sách hỗ trợ phát triển hệ sinh thái công nghệ văn hóa một cách bền vững, góp phần bảo tồn giá trị truyền thống, hiện đại hóa sản phẩm văn hóa và mở rộng thị trường văn hóa Việt Nam ra toàn cầu.

Như vậy, có thể nói rằng hệ sinh thái công nghệ thúc đẩy phát triển văn hóa đang đứng trước nhiều thách thức cả về con người, tổ chức lẫn môi trường vận hành. Các chủ thể tham gia chưa được phân vai rõ ràng, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đặc biệt là sự thiếu hụt nhân lực có khả năng tích hợp công nghệ với sáng tạo văn hóa. Doanh nghiệp văn hóa - công nghệ vẫn còn yếu về năng lực tài chính, công nghệ và cạnh tranh, trong khi công chúng chưa được định hướng tốt để trở thành người tiêu dùng chủ động và đồng sáng tạo nội dung số. Tiếp theo là mối quan hệ giữa các chủ thể trong hệ sinh thái còn rời rạc, thiếu cơ chế hợp tác công – tư hiệu quả, chưa hình thành được mạng lưới liên kết liên ngành chặt chẽ giữa văn hóa, công nghệ, giáo dục, truyền thông. Cơ chế chia sẻ giá trị trong chuỗi văn hóa số còn bất cập, ảnh hưởng đến động lực sáng tạo và phát triển. Cuối cùng, môi trường cộng sinh cho sáng tạo công nghệ - văn hóa vẫn còn nhiều rào cản: hạ tầng số chưa đồng đều, dữ liệu văn hóa thiếu chuẩn hóa, chính sách hỗ trợ còn yếu và pháp lý chưa theo kịp công nghệ. Để vượt qua các thách thức này, cần thiết lập một hệ sinh thái mở, hợp tác đa chiều, đầu tư chiến lược vào nhân lực, hạ tầng và hành lang pháp lý, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho phát triển văn hóa số bền vững và bao trùm.

Duong Huy


[1] Kết quả phân tích của Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ thống kê, Cục Thu thập dữ liệu và Ứng dụng công nghệ thông tin, Tổng cục Thống kê phối hợp Cục Bản quyền tác giả (Bộ VHTTDL) thực hiện năm 2023