Hạ tầng trí tuệ nhân tạo là bộ phận trọng yếu của hạ tầng số quốc gia
|
Hạ tầng trí tuệ nhân tạo: Bộ phận then chốt của hạ tầng số quốc gia Theo dự thảo, hạ tầng trí tuệ nhân tạo được xác định là một bộ phận trọng yếu trong hạ tầng số quốc gia, được quy hoạch, đầu tư, xây dựng và phát triển theo định hướng chiến lược, nhằm phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việc phát triển hạ tầng và bảo đảm chủ quyền trí tuệ nhân tạo quốc gia phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau: Vai trò dẫn dắt của Nhà nước: Nhà nước chịu trách nhiệm quy hoạch và đầu tư vào các thành phần hạ tầng lõi, đồng thời huy động tối đa nguồn lực xã hội thông qua các cơ chế hợp tác công – tư, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư, xây dựng và vận hành. Cân bằng lợi ích: Đảm bảo tự chủ quốc gia song song với hợp tác quốc tế; kết hợp công nghệ mở và công nghệ thương mại; hài hòa lợi ích công cộng và kinh tế; bảo đảm công bằng, minh bạch, bao trùm trong tiếp cận và khai thác hạ tầng; khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền và lãng phí. An ninh và bảo mật: Bảo vệ an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng, dữ liệu trọng yếu và quyền riêng tư cá nhân theo quy định pháp luật về dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân và an ninh mạng. Phát triển bền vững: Ưu tiên năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng, gắn với bảo vệ môi trường; hài hòa với chuẩn mực và thông lệ quốc tế, tham chiếu các khung pháp lý tiên tiến về trí tuệ nhân tạo và phù hợp với đặc thù Việt Nam. Xây dựng nền tảng dữ liệu và công nghệ cốt lõi, giảm phụ thuộc công nghệ nước ngoài Dự thảo Luật đặt ra các mục tiêu phát triển trí tuệ nhân tạo quốc gia: Chính sách phát triển hạ tầng trí tuệ nhân tạo nhằm xây dựng nền tảng vật chất, dữ liệu và công nghệ cốt lõi, đảm bảo năng lực tự chủ, giảm phụ thuộc công nghệ nước ngoài và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Xây dựng và vận hành hạ tầng tính toán hiệu năng cao, bao gồm siêu máy tính quốc gia, GPU cloud và nền tảng trí tuệ nhân tạo dùng chung. Thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia cho trí tuệ nhân tạo, phục vụ nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và ứng dụng thực tiễn. Khuyến khích sử dụng, phát triển và đóng góp mã nguồn mở, dữ liệu, mô hình từ doanh nghiệp, tổ chức và cộng đồng vào hạ tầng trí tuệ nhân tạo quốc gia. Bảo đảm chủ quyền dữ liệu bằng cách lưu trữ và xử lý dữ liệu trọng yếu trong lãnh thổ Việt Nam theo quy định Luật Dữ liệu và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Thúc đẩy hợp tác công – tư để mở rộng hạ tầng, đảm bảo cân bằng giữa tự chủ công nghệ và hội nhập quốc tế. Ưu tiên phát triển cơ sở dữ liệu chuyên biệt cho trí tuệ nhân tạo Về cơ sở dữ liệu quốc gia cho trí tuệ nhân tạo, dự thảo nêu rõ: việc xây dựng, quản lý, kết nối, chia sẻ và bảo vệ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành và cơ sở dữ liệu tổng hợp phục vụ trí tuệ nhân tạo được thực hiện theo Luật Dữ liệu, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và các pháp luật liên quan. Nhà nước ưu tiên phát triển các cơ sở dữ liệu chuyên biệt cho trí tuệ nhân tạo, gồm: Dữ liệu mở: công khai, miễn phí, không hạn chế sử dụng; Dữ liệu mở có kiểm soát: truy cập có điều kiện, tuân thủ quy tắc về mục đích sử dụng, bảo mật hoặc nghĩa vụ đóng góp ngược; Dữ liệu thương mại: cung cấp theo hợp đồng, có thu phí hoặc các hình thức trao đổi giá trị khác, đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích kinh tế. Việc phân loại, lưu trữ, bảo mật và khai thác dữ liệu được thực hiện theo nguyên tắc của Luật Dữ liệu; các quy định đặc thù cho dữ liệu huấn luyện trí tuệ nhân tạo sẽ do Chính phủ quy định. Nhà nước có cơ chế ưu đãi cho tổ chức, cá nhân đóng góp dữ liệu, bao gồm ưu tiên tiếp cận hạ tầng, miễn giảm thuế, hỗ trợ tài chính và công nhận đóng góp cộng đồng. Chính phủ sẽ quy định chi tiết cơ chế hình thành, quản lý, vận hành và khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia cho trí tuệ nhân tạo. Duong Huy |