Biến thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN) thành “nguồn năng lượng tri thức”
Theo thống kê của Bộ KH&CN (2025), hệ thống thông tin KH&CN quốc gia hiện đang lưu trữ 66.827 bản ghi về các nhiệm vụ KH&CN ở nhiều cấp độ đã và đang triển khai; 412.047 công bố khoa học (trong đó nhiều bài có toàn văn); cùng dữ liệu của 895 tổ chức nghiên cứu – phát triển (R&D).
Bên cạnh đó, từ năm 2007, Liên hợp Thư viện Việt Nam về nguồn tin KH&CN được hình thành, tập hợp hàng trăm thư viện và trung tâm thông tin nhằm tăng cường chia sẻ, bổ sung nguồn lực phục vụ nghiên cứu.
Về mặt hạ tầng số, năm 2025 Việt Nam đã khởi động Trung tâm Dữ liệu Quốc gia và mở rộng hệ thống trung tâm dữ liệu khu vực với sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước như Viettel IDC, FPT và cả những tập đoàn quốc tế như Google, Alibaba. Đây là nền móng để nâng cao năng lực lưu trữ, xử lý dữ liệu lớn – trong đó có dữ liệu KH&CN – phục vụ quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế số.
Tuy vậy, hệ sinh thái thông tin KH&CN của Việt Nam vẫn ở giai đoạn đầu và gặp nhiều hạn chế. Dữ liệu còn rời rạc, trùng lặp và thiếu liên thông; nhiều cơ sở dữ liệu do các bộ, ngành, viện nghiên cứu hay trường đại học phát triển nhưng không kết nối với nhau, làm giảm hiệu quả tìm kiếm và khai thác thông tin.
Khả năng khai thác dữ liệu vẫn còn yếu, nhất là với các doanh nghiệp nhỏ và vừa do thiếu đội ngũ chuyên môn. Phần lớn dữ liệu tồn tại dưới dạng “thô”, đòi hỏi nguồn nhân lực trình độ cao để xử lý và chuyển hóa thành tri thức hữu dụng – quá trình được ví như việc “chuyển phấn hoa thành mật ong”, cần tới những “chú ong” am hiểu quản trị dữ liệu.
Một rào cản lớn khác là mức đầu tư tài chính chưa tương xứng. Chi ngân sách cho nguồn tin KH&CN mới đạt khoảng 0,4% tổng chi R&D, thấp hơn đáng kể so với mức 1,9% của châu Âu (OECD, 2022), dẫn tới hạn chế trong cập nhật tài liệu quốc tế và phát triển các dịch vụ dữ liệu có giá trị gia tăng.
Ngoài ra, hành lang pháp lý vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển công nghệ. Mặc dù Việt Nam đã ban hành Luật Dữ liệu (2024), Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân (2023), Luật Giao dịch điện tử (2023), song khung pháp lý vẫn cần tiếp tục hoàn thiện để vừa thúc đẩy khai thác dữ liệu, vừa đảm bảo an toàn, bảo mật và quyền sở hữu trí tuệ.
Đáng lưu ý là văn hóa chia sẻ dữ liệu chưa hình thành rõ rệt. Nhiều nhà khoa học và tổ chức vẫn coi dữ liệu là tài sản riêng, không muốn công bố, khiến khả năng tái sử dụng còn thấp. Sự phối hợp giữa viện, trường và doanh nghiệp còn lỏng lẻo, làm giảm hiệu quả khai thác chung. So với chuẩn quốc tế, Việt Nam vẫn còn khoảng cách trong đầu tư ngân sách, hạ tầng, nhân lực và văn hóa khoa học mở.
Những thách thức trên cho thấy việc xây dựng hệ sinh thái thông tin KH&CN ở Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào hạ tầng và pháp lý, mà quan trọng hơn là phát triển nguồn nhân lực và hình thành môi trường chia sẻ, để dữ liệu thực sự trở thành “nguồn năng lượng tri thức”. Đây cần được xem như một loại hạ tầng chiến lược quốc gia, tương đương với năng lượng, giao thông hay viễn thông trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Tại Hội thảo “Vai trò của thông tin khoa học và công nghệ trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội” do Tạp chí Một Thế Giới phối hợp Đại học Quốc gia TPHCM tổ chức, ông Trần Văn Tùng – Chủ tịch Hội Thông tin KH&CN Việt Nam – nhấn mạnh rằng thông tin KH&CN không chỉ là tri thức mà còn là nguồn lực và chất xúc tác quan trọng cho đổi mới sáng tạo và phát triển đất nước.
PGS.TS Huỳnh Thành Đạt, Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, cũng khẳng định thông tin KH&CN chính là “huyết mạch” của phát triển kinh tế số, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phù hợp tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW.
Dưới góc độ ứng dụng, PGS.TS Trần Minh Triết – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – cho rằng cần thúc đẩy mạnh mẽ việc ứng dụng thông tin, AI và thực tại ảo (VR) không chỉ trong chuyên môn mà cả ở nhiều lĩnh vực khác, giúp đưa giá trị của thông tin KH&CN đến gần hơn với cộng đồng. Ngoài hệ thống thư viện, cần đa dạng hóa kênh tiếp cận thông tin thông qua các hiệp hội chuyên ngành về AI, học máy và các lĩnh vực liên quan.
Bà Huỳnh Thị Mỹ Phương – Giám đốc Thư viện Trung tâm ĐHQG TPHCM – nhấn mạnh vai trò thiết yếu của thông tin và dữ liệu trong hoạt động nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, giao tiếp học thuật và ra quyết định. Bà lưu ý rằng lượng thông tin khổng lồ hiện nay dễ gây quá tải, do đó cần tăng cường quản lý tập trung để đảm bảo định hướng, đánh giá và độ tin cậy.
Nhiều chuyên gia thống nhất rằng hệ sinh thái thông tin KH&CN phải được phát triển theo mô hình Mở – Liên thông – An toàn – Giá trị gia tăng cao, phù hợp với nguyên tắc FAIR (Findable, Accessible, Interoperable, Reusable). Dữ liệu cần được công khai, liên thông, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ và an ninh, đồng thời trở thành nguồn lực giúp thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, đóng góp trực tiếp cho kinh tế số.
Để đạt được mục tiêu này, các giải pháp được đưa ra gồm: hoàn thiện khung pháp lý, triển khai sandbox thử nghiệm mô hình chia sẻ dữ liệu nghiên cứu, và mở rộng chính sách dữ liệu mở theo hướng dẫn của OECD và UNESCO.
Tiếp đó là xây dựng nền tảng dữ liệu tích hợp quốc gia, chuẩn hóa và kết nối các cơ sở dữ liệu hiện hữu, hình thành mục lục liên hợp toàn quốc để hỗ trợ tra cứu. Hệ thống V-Compas cũng cần được phổ biến rộng để phân tích năng lực công nghệ và hỗ trợ hoạch định chính sách.
Việc ứng dụng AI và công nghệ số tiên tiến được coi là yếu tố then chốt. AI có thể hỗ trợ phân tích xu hướng nghiên cứu, dự báo chiến lược, tạo công cụ tìm kiếm thông minh và chatbot phục vụ các nhà khoa học, doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Một hệ sinh thái dữ liệu chỉ phát triển bền vững khi có sự tham gia của nhiều bên liên quan.
Việt Nam cũng cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tham gia các sáng kiến như EOSC, Open Data Charter hay Aus4Innovation để học hỏi kinh nghiệm và chuẩn hóa theo thông lệ toàn cầu.
Song song đó, đào tạo nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quyết định. Việt Nam cần phát triển đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực quản trị dữ liệu, khoa học dữ liệu và thống kê KH&CN ở bậc đại học và sau đại học; hợp tác với các tập đoàn công nghệ lớn để nhanh chóng nâng cao năng lực. Doanh nghiệp cũng cần xây dựng bộ phận chuyên trách về quản trị dữ liệu, đảm bảo quy trình thu thập – xử lý – lưu trữ – khai thác được thực hiện chuyên nghiệp.
Chuyển đổi số trong dịch vụ công KH&CN cũng cần được thúc đẩy. Khi các thủ tục như đăng ký sáng chế, hồ sơ nghiên cứu, cấp phép thử nghiệm được số hóa và tích hợp lên Cổng dịch vụ công quốc gia, không chỉ giúp người dân và doanh nghiệp thuận tiện hơn mà còn tạo ra kho dữ liệu minh bạch phục vụ công tác quản trị.
Cuối cùng, phát triển văn hóa chia sẻ dữ liệu là yếu tố mang tính quyết định. Cần tăng cường tuyên truyền, thúc đẩy tinh thần khoa học mở, xây dựng cộng đồng hợp tác và khuyến khích doanh nghiệp công bố kết quả R&D như một trách nhiệm xã hội. Khi văn hóa chia sẻ được hình thành, dữ liệu KH&CN mới thật sự trở thành động lực phát triển.
Duong Huy