Phân vùng nguy cơ trượt lở đất đá qua các ứng dụng khoa học công nghệ
Hiện nay, tình trạng sạt lở đất tại nhiều khu vực, tỉnh thành tại Việt Nam đang ở mức báo động, đặc biệt là khu vực vùng núi phía Bắc. Do đó việc tăng cường cảnh báo sớm, ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác dự báo là một trong những giải pháp quan trọng nhằm hạn chế thiệt hại về người và tài sản do sạt lở đất gây ra là cấp thiết.
Theo các chuyên gia địa chất, trượt lở đất đá là một trong những loại hình thiên tai phổ biến nhất trên thế giới và Việt Nam. Ở Việt Nam, những năm gần đây, các loại hình thiên tai này xảy ra với tần suất và cường độ ngày càng tăng, gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, điển hình ở các tỉnh miền núi như: Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Thanh Hóa, Nghệ An...
Hiện nay Việt Nam 4 tỉnh tại có nguy cơ trượt, sạt lở đất cao nhất tại khu vực phía Bắc là: tỉnh Điện Biên với 673 điểm, tỉnh Lào Cai với 534 điểm, riêng Sơn La và Yên Bái là 2 tỉnh có đến trên 1000 điểm trượt (theo theo số liệu trong Báo cáo kết quả điều tra và thành lập bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 khu vực miền núi tỉnh Yên Bái, năm 2014 của Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản).
Trong đó, số lượng các điểm trượt lở lớn nhất tại huyện Mù Cang Chải với 287 điểm trượt và huyện Văn Yên với 299 điểm trượt đều thuộc tỉnh Yên Bái. Bởi địa hình tại 2 khu vực này đều có đồi núi cao, huyện Mù Cang Chải có thung lũng hẹp, huyện Văn Yên tương đối đa dạng và phức tạp đồi núi liên tiếp và cao dần về phía Tây Bắc, nhìn chung do nhu cầu phát triển quỹ đất trong xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn chưa được đầu tư, nâng cấp, chính vì vậy, để xây dựng hạ tầng, người dân thường phải khoét và đánh chân núi hoặc taluy. Điều này đã tạo nên những độ dốc nhân tạo, gây khả năng trượt lở đất đá rất cao.
Theo TS. Trương Xuân Quang – Khoa Công nghệ Thông tin - trường Đại học Tài nguyên và Môi trường, thì để tăng cường khả năng dự báo phục vụ cho mục đích phòng chống thiên tai trượt lở đất, đá tại các khu vực có nguy cơ sạt lở cao, tôi cùng đồng sự đã thực hiện đề tài nghiên cứu “ Tích hợp trí tuệ nhân tạo và các công nghệ giám sát trái đất trong nghiên cứu tai biến trượt lở đất ở vùng núi phía Bắc Việt Nam”.
Nghiên cứu đã áp dụng ứng dụng về khoa học công nghệ trong nhận diện trượt lở đất như phương pháp PSInSAR (sử dụng chuỗi dữ liệu SAR đa thời gian), UAV, CNN (Mạng nơ ron tích chập),... Phương pháp CNN chuyển tiếp các thông tin, dữ liệu đầu vào qua nhiều lớp của CNN, giúp các mạng này có thể nhận ra các quy luật trong hình ảnh như thị giác con người, tránh việc phải sử dụng đến các quy luật phức tạp do con người thiết kế.
Ngoài việc sử dụng các công nghệ trên, Nhóm nghiên cứu dựa kết hợp bản đồ phân vùng nguy cơ trượt lở với lượng mưa từ trạm hoặc lượng mưa dự báo có thể xây dựng hệ thống cảnh báo trượt lở tại Việt Nam.Từ hướng tiếp cận đó, nghiên cúu của chúng tôi có tích hợp của bản đồ chuyên đề phân vùng nguy cơ trượt lở đất kết hợp với dữ liệu mưa từ trạm(dữ liệu gần thời gian thực) và dữ liệu mưa dự báo để xây dựng hệ thống cảnh báo trượt lở cho khu vực huyện Văn Yên và Mù Cang Chải ở tỉ lệ bản đồ 1:50000. Hệ thống có thể đưa ra được cảnh báo trong không gian theo 4 cấp độ: Ít nguy cơ, nguy cơ trung bình, nguy cơ cao và nguy cơ rất cao.
Cũng Theo TS. Trương Xuân Quang: Trong thời gian tới để thực hiện việc phòng chống tai biến, trượt lở đất ở vùng núi phía Bắc Việt Nam được hiệu quả hơn thì các mô hình trí tuệ nhân tạo được đánh giá có độ chính xác cao mang lại sự lựa chọn tốt nhất cho kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, để áp dụng các công nghệ khoa học này cần có sự phối hợp của chính quyền, nhà quản lý trong việc theo dõi và xây dựng những biện pháp phòng chống nguy cơ trượt lở, tuyệt đối không tác động gây áp lực lên sườn dốc hiện tại và có những phương án di dời khi có điều kiện bất thường về mưa lũ.
Đình Lâm