Một số vấn đề về dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

Hội nghị đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng nguồn nước, phòng chống bị ô nhiễm để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và đời sống của Nhân dân hiệu quả hơn.

Mới đây Văn phòng Quốc hội phối hợp với Thường trực Uỷ ban Khoa học Công nghệ và Môi trường vừa tổ chức mới đây, nhiều chuyên gia, các nhà khoa học đã đưa ra quan điểm, đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng nguồn nước, phòng chống bị ô nhiễm để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và đời sống của Nhân dân hiệu quả hơn.

Ô nhiễm nguồn nước đang là vấn đề nhức nhối

Dưới áp lực của sự gia tăng dân số, phát triển công nghiệp, đô thị hóa, nhu cầu sản xuất lương thực và thực phẩm, thu hẹp diện tích đất đai và diện tích rừng đầu nguồn khiến tài nguyên nước đang được khai thác triệt để khiến việc suy thoái chất lượng nước là khó kiểm soát và ngăn chận hiệu quả. Nhiều dòng sông đang bị ô nhiễm nặng nề, chất lượng nước ngày càng xấu đi do mang nhiều độc chất từ các chất thải kim loại nặng, chất thải hữu cơ và vô cơ từ sinh hoạt, các dư lượng hóa dược nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Rừng bị hủy hoại do khai thác trái phép, làm thủy điện... sẽ khiến cho việc điều tiết nguồn nước trong mùa khô vô cùng hạn chế. Nguồn nước dưới đất cũng bị tụt giảm, nhiều nơi bị nhiễm mặn, nhiễm asenic hoặc bị thông tầng khiến các chất ô nhiễm trên mặt đất thấm xuống các vĩa nước ngầm.

Dự báo nhu cầu nước đến năm 2020 sẽ là 80 tỷ m3/năm, năm 2030 sẽ là 87 - 90 tỷ m3/năm. Khối lượng này bằng khoảng 11% tổng tài nguyên nước, hoặc 29% tài nguyên nước nội địa hình thành trên lãnh thổ quốc gia. Tổng lượng nước cần cho nền kinh tế quốc dân của Việt Nam đến năm 2020 dự đoán lên đến khoảng 510 - 520 tỷ m3/năm. Nhu cầu nước gia tăng trong tình hình số lượng và chất lượng ngày càng suy giảm là một thử thách lớn cho an ninh nguồn nước ở Việt Nam.

Huy động sự tham gia của cộng đồng trong quản lý tài nguyên nước

TS. Lê Anh Tuấn – Viện Nghiên cứu về biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ) cho rằng, Quản lý nguồn nước ở Việt Nam, từ Trung ương đến địa phương cần tiếp tục thúc đẩy việc xây dựng giải pháp quản lý tài nguyên nước thông qua việc đổi mới theo hướng tổng hợp phối với kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu qua việc đầu tư kinh phí, hợp tác với các nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật, các tổ chức chính phủ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ để cùng nhau chung tay xây dựng và triến khai các hoạt động cụ thể. Trong đó, cần có quy định các tiêu chuẩn của phát triển xanh, điều này không phải đơn thuần chỉ là một khẩu hiệu mà phải có những hoạt động và hành động thiết thực, trong đó phải có những giải pháp khoa học trong quản lý tổng hợp lưu vực sông với sự tham gia của cộng đồng người và các tổ chức xã hội dân sự. Đây phải là một chủ trương nhất quán và mục tiêu tổng quát trong mọi kế hoạch chiến lược, quy hoạch phát triên và các dự án tăng trưởng kinh tê - xã hội. Bảo vệ sự trong lành của các dòng sông không chỉ là nhiệm vụ của chính mỗi người dân mà còn là trách nhiệm công dân cho thế hệ tương lai của đất nước.

Phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra

GS.TS Lê Hồng Hạnh - Ủy viên Hội đồng tư vấn Dân chủ - Pháp luật, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho rằng, Điều 72 Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định về các hoạt động trên lưu vực sông cần được điều phối, giám sát. Trong đó có các hoạt động liên quan đến bảo vệ môi trường nước lưu vực sông, ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước, phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt, phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông. Tuy nhiên, các quy định chưa gắn với đối tượng cụ thể cần điều chỉnh nên khó phân biệt đâu là hoạt động quản lý tài nguyên nước, đâu là hoạt động bảo vệ môi trường nước. Trong trường hợp xảy ra các sự cố đối với nguồn nước thì khó xác định đâu là phạm vi điều chỉnh của pháp luật tài nguyên nước và đâu là pháp luật bảo vệ môi trường nước.

Các quy định của hai lĩnh vực pháp luật này về đầu tư dự án xây dựng công trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước hoặc có hoạt động xả nước thải vào nguồn nước có ảnh hưởng lớn đến sản xuất cũng chồng lên nhau ở các quy định về công khai, minh bạch, lấy ý kiến nhân dân. Các quy định về tài nguyên nước ở các lưu vực sông cũng có những sự chồng lấn với các quy định bảo vệ môi trường lưu vực sông.

Việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước chưa được đảm bảo bởi các quy định pháp luật có khả năng tích hợp các khía cạnh bảo vệ môi trường, khai thác tài nguyên nước, cân bằng lợi ích của các bên liên quan, quy hoạch. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều công trình được xây dựng, đưa vào hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, song chưa được cấp phép. Hầu như việc khoan nước ngầm chưa được quản lý do thiếu nền tảng pháp lý cần thiết.

Với những ý kiến, đề xuất như trên, các chuyên gia kỳ vọng dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) lần đầu tiên được cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 tới sẽ được Quốc hội xem xét một cách có hệ thống khoa học và bài bản trên tinh thần xây dựng để góp phần giải quyết những bất cập hiện nay đối với việc bảo đảm an ninh, chất lượng nguồn nước phục để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và đời sống của Nhân dân được hiệu quả hơn.