Những quy định pháp luật của nước ta về quyền tác giả và quyền liên quan

Quyền tác giả là bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm một tập hợp quyền dành cho người sáng tạo đối với các tác phẩm khoa học, văn học và nghệ thuật của họ.

 Ở nước ta, theo Khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì: Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Theo Khoản 3 Điều 4 Luật SHTT sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì: Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Các đối tượng SHTT trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên quan được nhà nước bảo hộ bao gồm: tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.

Theo quy định tại Điều 750 của Luật Dân sự năm 2005, quyền của tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm do mình sáng tạo. Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền nhân thân đối với tác phẩm của mình bao gồm: a) Đặt tên cho tác phẩm; b) Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, phổ biến, sử dụng; c) Công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm của mình; d) Cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình; đ) Bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, cho phép hoặc không cho phép người khác sửa đổi nội dung tác phẩm. Và họ có các quyền tài sản đối với tác phẩm của mình bao gồm: a) Được hưởng nhuận bút; b) Được hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng; c) Được hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm dưới các hình thức sau đây: Xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh, truyền hình, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh; Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể; Cho thuê; d) Nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả, trừ trường hợp tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ.

Thời điểm phát sinh quyền tác giả được quy định tại Điều 754: Quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình thức nhất định.

Đặc trưng quan trọng nhất của luật bản quyền là bảo hộ quyền của chủ sở hữu tác phẩm trong một thời hạn nhất định. Mặt khác, một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật sở hữu trí tuệ nói chung, pháp luật quyền tác giả nói riêng là nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với lợi ích của xã hội. Để làm việc này, luật SHTT, luật pháp về quyền tác giả của quốc tế và của nhiều nước đã tạo nên một số quy định thường được gọi là “fair use” - “dùng đẹp”, “sử dụng đẹp”, “sử dụng hợp lý”: quyền của mọi người sử dụng tài liệu có bản quyền không phải xin phép, không phải trả nhuận bút, thu lao trong một số trường hợp. Một trong những lĩnh vực thể hiện rất rõ nguyên tắc này là những quy định về sao chép tác phẩm.

Ở nước ta, tại Điều 760 Bộ luật dân sự 2005 và Điều 25 Luật SHTT (2005) quy định một trong những trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Tuy nhiên, Luật SHTT năm 2005 đã có những chỉnh sửa bổ sung một số điều vào năm 2005, trong đó có Điều 25. Tại Điều 6 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ được sửa đổi, bổ sung. Điều 25 của Luật SHTT được sửa đổi, bổ sung như sau:

1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:

a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;

b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;

c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;

d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;

đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;

e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;

g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;

h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;

i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;

k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.

2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

3. Các quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.”