Ứng phó với biến đổi khí hậu cho khu vực đô thị tại Việt Nam

Nghiên cứu “Nâng cao năng lực chống chịu của đô thị dưới tác động của biến đổi khí hậu và một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam”

Nghiên cứu “Nâng cao năng lực chống chịu của đô thị dưới tác động của biến đổi khí hậu và một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam” của TS. Nguyễn Hữu Quyền (Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu) đã góp phần đưa ra một số giải pháp nhằm giảm thiểu sự tác động từ biến đổi khí hậu đến các đô thị và giảm phát khí thải nhà kính trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam.

Nhiều thiên tai bất thường

Nghiên cứu đã khảo sát đánh giá mức độ tác động do biến đổi khí hậu tại 5 thành phố trực thuộc Trung ương và 14 đô thị loại 1. Các ảnh hưởng thường xuyên gồm có ngập úng do mưa lớn, triều cường, bão lớn và dông lốc.

Cụ thể, các đô thị miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ gặp sạt lở, lũ quét, rét hại, mưa lớn,..; Khu vực đô thị ven biển miền Trung và đô thị Nam Bộ gây ra lũ lụt lớn, ngập úng, nước dâng, sạt lở bờ sông, bờ biển, xâm nhập mặn,…

Trong đó, trận mưa lớn tháng 10/2020 tại các đô thị miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế ghi nhận lượng mưa cả đợt 2236,2mm tại A lưới; 1864mm tại Huế; tại Bạch Mã – Đà Nẵng, mưa đặc biệt lớn vào tháng 10/2022 với lượng mưa là 1035mm và 709mm tại TP. Đà Nẵng.

Theo Bản đồ nguy cơ ngập úng với mực nước biển dâng tại Đồng bằng sông Cửu Long của Bộ TN&MT công bố năm 2022 cho thấy, BĐKH tạo sức ép lớn đến đô thị ven biển và các đô thị Đồng bằng sông Cửu Long nếu mực nước biển dâng lên 100cm, 47,29% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập vĩnh viễn.

Không chỉ mưa lớn, dông lốc, bão và ngập lụt ở đô thị ngày càng phổ biến và gia tăng, hiện tượng nhiệt độ tăng cao, nắng nóng cũng có xu thế tăng mạnh ở các đô thị và các khu công nghiệp gây ra nhiều tác động tiêu cực đến tình trạng tiêu thụ điện, phụ tải điện gia tăng sẽ khiến giảm hiệu suất truyền điện, tăng nguy cơ chập cháy mất an toàn, gây ra nguy cơ cháy rừng, phá hủy hệ sinh thái, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân…

Chính vì tác động của BĐKH cùng nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan khác đang ngày càng gia tăng tại Việt Nam lên các đô thị đã dẫn đến những rủi ro về hiện tượng đảo nhiệt trong đô thị và những thiên tai, thiệt hại khó lường cho đời sống người dân. Vì vậy, nghiên cứu của TS. Hữu Quyền đã đưa ra một số kinh nghiệm quốc tế mà Việt Nam có thể áp dụng để nâng cao năng lực chống chịu của đô thị dưới tác động của BĐKH.

Hướng đến đô thị xanh

Qua đó, theo Uỷ ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) 2018, một số giải pháp chính giúp chống chịu với thiên tai của các đô thị trên thế giới có thể kể đến như: Tích hợp giảm nhẹ thích ứng nhằm hướng đến xây dựng đô thị xanh, cacbon thấp, tạo môi trường dễ chịu cho con người sinh sống và chống chịu với thiên tai; Xây dựng nhóm giải pháp tập trung vào chống chịu với thiên tai bằng các giải pháp công trình (công trình chống chịu gió mạnh, ngập lụt, nắng nóng, nước dâng,…) từ đó có thể tăng cường khả năng dự báo và cảnh báo thiên tai; Xây dựng thông tin về rủi ro với sự tham gia của các bên (nhà hoạch định chính sách, quản lý, nhà khoa học, cộng đồng, doanh nghiệp,…) trong đánh giá rủi ro khí hậu đô thị và xây dựng chính sách ứng phó phù hợp; Tập trung vào nhóm dân cư có hoàn cảnh khó khăn, ưu tiên ứng phó BĐKH đối với những đối tượng dễ bị tổn thương như người nghèo, phụ nữ, người nhập cư; Xây dựng các hệ thống quản trị, tài chính, thể chế và chính sách, quy hoạch kết nối giữa các đô thị trong và ngoài nước trong việc giảm thiểu rủi ro thiên tai, thích ứng với BĐKH.

Đồng thời, để thực hiện các giải pháp giảm phát khí nhà kính (KNK), ứng phó với BĐKH, TS. Hữu Quyền cũng đưa ra một số kiến nghị phù hợp với các đô thị Việt Nam.

Đó là cần xây dựng và triển khai đồng thời các giải pháp giảm phát thải KNK và thích ứng BĐKH cho các đô thị tại Việt Nam thông qua quy hoạch và thiết kế đô thị với việc “phủ xanh” diện tích cây xanh, xây dựng và sử dụng hệ thống pin mặt trời trong hệ thống các đô thị; tăng cường đầu tư tài chính và kêu gọi sự tham gia của các bên liên quan trong việc ứng phó với BĐKH; đa dạng sinh học và hệ sinh thái đô thị dựa vào các giải pháp tự nhiên; chú trọng đến chuyển đổi năng lượng trong quá trình đô thị hoá, hạ tầng giao thông, quản lý nước, quản lý phát thải rắn; xây dựng thể chế và chính sách hướng tới các lộ trình phát triển đô thị bền vững nhằm ưu tiên triển khai thực hiện các giải pháp giảm phát thải KNK và chống chịu với BĐKH dựa vào tự nhiên, hướng tới đô thị thông minh. Cùng với đó, cần xác định rõ lộ trình lâu dài nhằm hướng đến mục tiêu chung là phát thải ròng bằng “0” vào giữa thế kỷ 21.

https://monre.gov.vn/Pages/ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau-cho-khu-vuc-do-thi-tai-viet-nam.aspx?cm=Bi%E1%BA%BFn%20%C4%91%E1%BB%95i%20kh%C3%AD%20h%E1%BA%ADu