Thêm một tư liệu về Danh xưng Thanh Hóa

Danh xưng là tên gọi của một quốc gia dân tộc hay của một con người cụ thể.

Tên của một người đã là điều đương nhiên phải có, tên của một dân tộc một quốc gia càng không thể thiếu. Việc xác định danh xưng chính là việc làm để định danh mốc thời gian ra đời, góp phần khẳng định bề dày truyền thống, sự tồn tại phát triển của quốc gia hay con người đó trong tiến trình thời gian.

Hai tiếng Thanh Hóa đã vang lên tự hào, kiêu hãnh trong sử sách, trong các văn bản của các triều đại và các phương tiện truyền thông xưa và nay. Có một câu hỏi luôn đặt ra day dứt chiếm trọn suy nghĩ của nhiều thế hệ - Tên gọi Thanh Hóa có tự bao giờ? Vấn đề này đã được đặt ra và tập trung kiếm tìm cả đến chục năm. Mới đây nhất, sau 3 cuộc hội thảo lớn thu hút nhiều tâm sức, nhiệt huyết của các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu lịch sử trong và ngoài tỉnh, câu hỏi đã có lời giải đáp.

Trên cứ liệu khoa học của Hội thảo, tại Kỳ họp thứ Ba, HĐND tỉnh khóa XVII đã biểu quyết thông qua Nghị quyết lấy năm 1029 là năm ra đời Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Như vậy Danh xưng Thanh Hóa có từ triều đại nhà Lý, thời Lý Thái Tông niên hiệu Thiên Thành năm thứ Hai - một triều đại an bình thịnh trị in dấu ấn đặc biệt trên đất Thanh Hóa, một triều đại có sự đóng góp to lớn với công lao hiển hách của các người con ưu tú xứ Thanh đó là: Đào Cam Mộc, Lê Phụng Hiểu, Nguyễn Tuyên...

Cứ liệu lịch sử để định danh đó được dựa vào “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của các sử thần triều Nguyễn; sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi và công trình nghiên cứu Việt Nam qua các đời của GS Đào Duy Anh. Từ sự phát hiện và tìm hiểu nghiên cứu chúng tôi muốn góp thêm tư liệu Danh xưng Thanh Hóa có từ thời Lý và được duy trì kéo dài ở triều đại này. Căn cứ này có sức thuyết phục cao nhất vì sử liệu được nêu ra tồn tại bằng văn bản trên tấm bia nhà Lý hiện đang được lưu giữ tại Khu văn hóa thôn Thọ Văn xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hóa. Tấm bia vốn có thể được đặt tại chùa Ngố (Ngố Tự) ngôi chùa có cự ly gần nhất khi tấm bia được phát hiện, sau đó được di lên Nghè ba xã, rồi được di về trụ sở Ủy ban xã Hoằng Phúc, tiếp đến được đưa về đền Cao Sơn, trước khi yên vị tại Khu văn hóa thôn Thọ Văn như bây giờ.

Đây là một trong những tấm bia quý hiếm tính trên đầu ngón tay của nước ta.

 

Cao Sơn nơi một thời bia Minh Tịnh tọa lạc.

Theo công trình nghiên cứu “Văn khắc Hán Nôm Việt Nam tập 1. Sách do Viện nghiên cứu Hán Nôm và Viễn Đông Bác cổ xuất bản năm 1996 số bia từ thời Bắc thuộc đến thời nhà Lý cả nước có tổng số 27 bia và chuông riêng Thanh Hoá có 6 bia:

1- Đại Tuỳ Cửu Chân quận Bảo An Đạo tràng chi bi văn, dựng năm 618 ở thôn Trường Xuân xã Đông Minh Đông sơn (hiện để tại Bảo tàng Lịch sử).

2- An Hoài Sơn Báo ân tự bi ký dựng năm 1100 tại Núi Nhồi chùa Báo Ân Đông Sơn Thanh Hoá.

3- Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh dựng năm 1118 tại thôn Duy Tinh xã Văn Lộc huyện Hậu Lộc.

4- Càn Ni Sơn Hương Nghiêm tự bi minh dựng năm 1125 đặt tại chùa Hương Nghiêm xã Thiệu Trung Thiệu Hoá Thanh Hoá.

5- Ngưỡng Sơn Linh xứng tự bi minh dựng năm 1126 xã Ngọ Xá, phủ Hà Trung Thanh Hoá (hiện để tại Bảo tàng Lịch sử).

6- Bảo Chưởng Thái Bà mộ chí năm 1207 tại xã Hoà Chúng huyện Quảng Xương (hiện để tại Bảo tàng Lịch sử).

Trong số 6 bia nói trên thì 3 tấm bia đã được đưa vào Bảo tàng Lịch sử và có chế độ bảo vệ đặc biệt, 3 tấm còn ở lại Thanh Hoá thì đã bị biến dạng hư hỏng nhiều.

 

Bia chùa Báo ân tại BT Lịch sử.

Nếu theo phép đối chiếu này thì tấm bia chùa Minh Tịnh có niên đại cổ thứ 2, đặc biệt là tính chất đặc sắc và nguyên vẹn của nó. Thực sự là một hiện vật gốc sống động tin cậy quý hiếm và có giá trị về nhiều mặt.

Tấm bia được tạo tác ghi khắc vào ngày 15 tháng 2 năm Canh Ngọ niên đại Quảng Hựu 6 tức năm 1090 Thời nhà Lý. Tấm bia 2 mặt cao 1,57 cm, chiều rộng phía trán bia là 96cm, chiều rộng phía đế bia là 16cm. Diềm bia rộng 7cm bao quanh mặt bia được trang trí hoa văn dây hoa cúc (một loại hoa văn quen thuộc Thời Lý) cùng nhiều loại cầm thú sinh động.

Trán bia mặt trước sau diềm bia là ô tên bia. Tên bia gồm có 5 chữ triện khắc chìm trong ô hình chữ nhật. Chiều dài 5cm rộng 10cm đọc là “Minh Tịnh tự bi văn” (Văn bia chùa Minh Tịnh).

Trán bia mặt sau khắc nổi hình 2 con rồng chầu vào nhau. Mỗi con rồng có chiều dài khoảng 40cm. Bài văn khắc ở 2 mặt trước sau gồm 37 hàng, mỗi hàng có từ 13 đến 31 chữ Hán chân phương, khắc chìm. Chất đá làm bia là loại đá xanh một loại đá quý duy nhất có của xứ Thanh. Cả hai mặt bia đều được chạm khắc kỹ lưỡng công phu đánh dấu một trình độ mỹ thuật điêu luyện và hoàn hảo.

Đây là tấm bia có giá trị văn hiến về nhiều mặt

Về lịch sử: Đây là tấm bia có niên đại rất sớm (1090) từ thời nhà Lý, thời kỳ mở đầu xây dựng nền độc lập của nước Đại Việt. Bia góp phần lý giải lịch sử tên gọi và tồn tại của tỉnh và chứng minh tỉnh Thanh Hoá là một vùng đất cổ, có bề dày truyền thống lịch sử.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi Vua, một trong những việc làm đầu tiên của ông là “đổi 10 đạo làm 24 lộ, châu Hoan châu Ái làm trại (Đại Việt Sử ký toàn thư T.1 NXBKHXH tr 242). Văn bia chùa Minh Tịnh dựng trên đất Hoằng Hoá có chữ trại, cho thấy vùng Thanh Hoá thời Lý Nhân Tông gọi là trại. Theo nội dung văn bia sau phần ca tụng sự hưng thịnh của nhà Lý tác giả trình bày ông Sùng Nghi sứ Hoàng Khánh Văn, được triều đình ban cho chức Quyền Tri Thanh Hoá trại đã dâng tờ khãi xin xây dựng chùa. Ngôi chùa được xây dựng trên một vùng đất hoang, cỏ cây rậm rạp. Chùa được dựng lên là để thần dân đến tu tâm niệm Phật và cũng là để ca ngợi sự phồn vinh của vương triều Lý Nhân Tông, một thời đại mà người hiền tài, không bị bỏ rơi, kẻ trung thần lương tướng được trọng dụng. Mọi công việc trong ngoài của triều đình đều có bề tôi hết lòng phụ giúp. Tình hình nơi biên châu ổn định, nước ở xa đến chầu. Chùa xây xong có quy mô khang trang lộng lẫy. Tấm bia cho ta hiểu một điều lý thú góp phần minh định thêm Danh xưng Thanh Hóa có từ thời nhà Lý 1029 - năm Thiên Thành thứ hai thời Lý Thái Tông và còn kéo dài cho tới thời Lý Nhân Tông và mãi sau này. Để định danh quốc gia có hai yếu tố cơ bản đó là cương vực lãnh thổ và ngôi đế, để định danh một tỉnh cũng trên hai yếu tố địa phận và người đứng đầu đại diện. Tấm bia còn hiện nguyên, tồn tại bằng vật chất có thể đọc được, sờ thấy được nên càng thi vị. Điều căn cốt ta tìm và tấm bia đã giúp trả lời được đó là: Thanh Hóa một thời gọi là trại do ông Sùng Nghi sứ Hoàng Khánh Văn tước Sùng Ban Hoàng Thừa Nhĩ đảm nhận Quyền tri trại. Điều đó thêm phần khẳng định, xác tin Danh xưng Thanh Hóa có từ thời nhà Lý là chính xác, thuyết phục.

Bia còn cho biết Quyền chủ chùa Thích Pháp Lương, trụ trì chủ chùa Thích Huệ Lăng là những người trông nom công việc xây chùa và dựng bia. Nó còn đưa ra một câu hỏi các nhà sư trụ trì chùa Thanh Hoá đều lấy họ Thích trong khi đó các vị thiền sư đời Lý trong Thiền Uyển tập anh ít khi lấy họ Thích.

Nội dung tấm bia còn giúp ta nguồn sử liệu về tình hình Phật giáo ở tỉnh Thanh Hoá thời Lý nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung. Góp phần bổ sung một áng văn hay về Phật giáo. Theo Bạch Liên sa ri Thiện Giác soạn bia thì một vũ trụ dù bao la cũng không thể vượt qua bản tính huyền diệu của Phật, sự sinh tử của muôn loài đều có căn nguyên sâu sa. Sự hưng thịnh của Phật giáo thời Lý đã khiến các bậc thánh hiền lưu tâm tới chùa chiền.

Về văn bản: Đây là tấm bia có văn bản hoàn chỉnh đầy đủ chương mục giúp các nhà văn bản học nghiên cứu toàn diện.

Về văn học: Nội dung bia đề cập đến quan niệm về đạo hiếu, lòng hiếu để của hậu thế với các bậc tiền nhân, quan niệm về đạo, làm con, làm dâu... Áng văn được tạo khắc trong bia có thể điển hình cho lối văn biền ngẫu, mỗi câu chữ hàm súc cô đọng.

Về mỹ thuật: Tấm bia giúp ta hiểu về các hoạ tiết, cách trang trí bố cục, mô típ hoa văn đời Lý sự đặc sắc và khác biệt với các triều đại khác như thế nào.

Xét trên mọi phương diện tấm bia thời Lý hiện để tại Khu văn hóa thôn Thọ Văn xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hoá tỉnh Thanh Hoá là một tấm bia quý hiếm có giá trị văn hiến cần được nghiên cứu và có chính sách bảo vệ đặc biệt. Năm 2019 tỉnh Thanh Hóa tổ chức kỷ niệm 990 năm danh xưng Thanh Hóa, tấm bia thực sự trở nên một bằng chứng sinh động thuyết phục và là một địa chỉ văn hóa cần đến.

---------

1. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam tập 1. Sách do Viện nghiên cứu Hán Nôm và Viễn Đông Bác cổ xuất bản năm 1996.

2. Tuyển tập Văn bia Thanh Hóa - Văn bia thời Lý - Trần (2012), Tập 1, Nxb Thanh Hóa.

3. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng (2007), các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên.

4. Bản rập văn bia chùa Minh Tịnh - tư liệu điền dã cá nhân.

Nguyễn Hữu Ngôn

Nguồn: Vanhoadoisong.vn